Châu Âu Các cuộc xâm lược của Mông Cổ

Người Mông Cổ đã xâm chiếm và hủy diệt Volga BulgariaKievan Rus ', trước khi xâm chiếm Ba Lan, HungaryBulgaria, cùng nhiều khu vực khác. Trong vòng ba năm (1237-1240), quân Mông Cổ đã tàn phá và hủy diệt tất cả các thành phố lớn của Nga, ngoại trừ NovgorodPskov.

Cuộc xâm lược của người Mông Cổ gây ra sự dịch chuyển dân số trên một quy mô chưa từng thấy trước đây ở Trung Á cũng như Đông Âu, gieo rắc nỗi kinh hoàng và hoảng loạn chưa từng thấy cho dân chúng nơi đây.

Mông Cổ xâm lược Rus

Một đội quân Mông Cổ với khoảng 25.000 cung thủ, được chỉ huy bởi Tốc Bất ĐàiBạt Đô, đã vượt qua sông Volga và xâm chiếm Volga Bulgaria vào cuối năm 1236. Họ chỉ mất một tháng để dập tắt sự kháng cự yếu ớt của những người Volga Bulgari, Cumans-Kipchaks và Alani.

Vào tháng 11 năm 1237, Bạt Đô đã gửi sứ giả của mình tới gặp hoàng tử Yuri II của Công quốc Vladimir nhằm kêu gọi Yuri II đầu hàng, tránh đổ máu vô ích. Một tháng sau, quân Mông Cổ bao vây Ryazan. Sau sáu ngày chiến đấu đẫm máu, thành phố Ryazan bị hủy diệt hoàn toàn và người dân trong thành bị tàn sát không thương tiếc. Khi tiến vào KolomnaMoskva, quân Mông Cổ đã thiêu rụi cả hai thành phố này. Quân Mông Cổ tiến đến Vladimir và bao vây thành phố này vào ngày 4 tháng 2 năm 1238. Ba ngày sau, thủ đô của Vladimir-Suzdal đã bị quân Mông Cổ chiếm đóng và thiêu rụi hoàn toàn. Gia đình hoàng gia bị chết cháy trong đống lửa, còn hoàng tử Yuri II chạy trốn về phía bắc. Khi băng qua sông Volga, Yuri II đã tập hợp được một đội quân mới, đội quân này bị bao vây và tiêu diệt hoàn toàn bởi quân Mông Cổ trong Trận chiến sông Sit vào ngày 4 tháng 3.

Ngay sau đó Bạt Đô chia đội quân của mình thành nhiều đơn vị nhỏ và tiến vào cướp phá một loạt các thành phố bao gồm Rostov, Uglich, Yaroslavl, Kostroma, Kashin, Ksnyatin, Gorodets, Galich, Pereslavl-Zalessky, Yuriev-Polsky, Dmitrov, Volokolamsk, TverTorzhok (14 thành phố này ngày nay đều thuộc Liên Bang Nga). Các thành phố lớn duy nhất thoát khỏi sự hủy diệt của quân Mông Cổ là NovgorodPskov. Người Mông Cổ đã lên kế hoạch đánh chiếm Novgorod, nhưng công quốc này đã tránh được số phận thảm khốc bởi quyết định khôn ngoan là đầu hàng trước.

Đến giữa năm 1238, quân Mông Cổ tàn phá Crimea và san bằng Mordovia. Vào mùa đông năm 1239, quân Mông Cổ tràn vào cướp bóc hai thành ChernigovPereyaslav. Sau nhiều ngày bao vây, quân Mông Cổ đã chiếm được Kiev vào tháng 12 năm 1240. Bất chấp sự kháng cự của Danylo xứ Halych, Bạt Đô đã chiếm được hai thành phố chính của ông ta là HalychVolodymyr-Volynskyi.

Cuộc xâm chiếm đã tạo điều kiện cho cuộc khởi đầu của sự tan rã của Rus Kiev vào thế kỷ XIII, làm gây ra những hậu quả không thể đếm được cho lịch sử Đông Âu, bao gồm sự phân chia dân tộc Đông Slave thành ba quốc gia riêng biệt ngày nay: Nga, UkrainaBelarus,[14] và sự nổi lên của Đại công quốc Moskva.

Mông Cổ xâm lược Ba Lan

Quân Mông Cổ di chuyển từ Volodymyr-Volynskyi (vùng đất thuộc Kievan Rus mà họ vừa chinh phục được) và tiến vào Ba Lan, chiếm thành Lublin, sau đó bao vây, chiếm và đốt cháy thành Sandomierz vào ngày 13 tháng 2 năm 1240. Trong khoảng thời gian này, lực lượng của họ đã tách ra làm đôi. Lực lượng của Orda tàn phá miền trung Ba Lan, di chuyển đến Wolbórz và tiến xa đến tận các thành trì phía bắc Ba Lan như Łęczyca, trước khi quay về phía nam và đi qua Sieradz về phía Wrocław. Trong khi đó lực lượng của Baidar và Kadan tàn phá vùng phía nam của Ba Lan.

Vào ngày 13 tháng 2, Baidar và Kadan đã đánh bại một đội quân Ba Lan dưới sự chỉ huy của Włodzimierz trong trận chiến Tursko. Vào ngày 18 tháng 3, họ đã đánh bại một đội quân Ba Lan khác gồm những binh lính đến từ Kraków và Sandomierz trong trận chiến Chmielnik. Sự hoảng loạn lan rộng khắp vùng đất Ba Lan và người dân đã cùng nhau rời bỏ thành Kraków, thành này bị quân Mông Cổ chiếm giữ và đốt cháy vào ngày 24 tháng 3. Trong khi đó, một trong những Công tước có thế lực nhất của Ba Lan và xứ Silesia là Henry II the Pious đã tập hợp đội quân của ông cùng với các đồng minh xung quanh khu vực Legnica nhằm tiến hành cuộc chiến chống lại quân Mông Cổ. Henry cũng đang chờ anh rể của ông là Wenceslaus I xứ Bohemia đem một đội quân lớn đến tiếp viện cho ông.

Nhận được tin Wenceslaus I đem quân tới, quân Mông Cổ đã quyết định từ bỏ việc vây hãm thành Wroclaw và chuyển mục tiêu sang đánh chặn quân Bohemia nhằm không cho đội quân này tới tiếp viện cho Henry. Quân Mông Cổ và Henry sau đó đã chạm trán nhau tại một cánh đồng gần Legnica. Henry, ngoài lực lượng của riêng mình, cũng được hỗ trợ bởi Mieszko II the Fat (Mieszko II Otyły), cùng với tàn quân Ba Lan bị đánh bại tại Tursk và Chmielnik, một số hiệp sĩ và dòng tu quân sự do Giáo hoàng phái tới và một số ít lính đánh thuê từ nước ngoài. Trận Legnica diễn ra với thảm bại dành cho liên quân kháng chiến Ba Lan-Đức-Séc. Henry bị lính Mông Cổ đánh gục và chặt đầu trong khi cố gắng chạy trốn khỏi chiến trường. Sau thắng lợi tại Legnica, quân Mông Cổ thỏa sức cướp phá vùng Silesia trù phú, trước khi rút khỏi khu vực này để nhập vào lực lượng chính của họ ở Hungary.

Mông Cổ xâm lược Czech

Sau thất bại của liên quân kháng chiến châu Âu tại Legnica, người Mông Cổ tiếp tục tiến vào cướp bóc một loạt các vương quốc láng giềng của Ba Lan, đặc biệt là SilesiaMoravia. Vua Wenceslaus I của Bohemia đã rút quân về để bảo vệ vương quốc của mình sau khi không thể đến kịp thời để tiếp viện cho quân Ba Lan của Henry II the Pious. Ông đem quân của mình đóng tại các vùng núi ở Bohemia, nơi người Mông Cổ không thể sử dụng kỵ binh của họ một cách hiệu quả.

Đến đây, quân Mông Cổ lại được chia làm 2. Một đội quân đặt dưới sự chỉ huy của Bạt Đô và Tốc Bất Đài đang chuẩn bị xâm chiếm Hungary và một đội quân do Baidar và Kadan chỉ huy tiến qua Silesia và Morovia, uy hiếp Bohemia. Người Bohemia đã kiên cường chống trả đợt tấn công của quân Mông Cổ, buộc Baidar và Kadan phải lui về thị trấn Othmachau. Một lực lượng nhỏ của người Mông Cổ đã tấn công Kłodzko nhưng đội kỵ binh của người Bohemia dưới sự chỉ huy của Wenceslaus đã xoay xở để chống đỡ họ thành công. Người Mông Cổ sau đó đã cố gắng chiếm thị trấn Olomouc, nhưng Wenceslaus đã có được sự trợ giúp của người Áo Babenberg và họ đã đẩy lùi cuộc đột kích. Dưới sự lãnh đạo của Wenceslaus, Bohemia trở thành một trong số ít các vương quốc châu Âu không bị người Mông Cổ chinh phục, mặc dù hầu hết các vương quốc khác xung quanh họ như Ba Lan và Moravia đều bị tàn phá. Sau những nỗ lực thất bại trong việc đánh chiếm Bohemia, Baidar và Kadan tiếp tục đánh phá Moravia trước khi tiến về phía nam để hội quân với Bạt Đô và Tốc Bất Đài ở Hungary.

Mông Cổ xâm lược Hungary

Quân đội Hungary đã đến đóng quân tại sông Sajó vào ngày 10 tháng 4 năm 1241. Quân Mông Cổ, dưới sự chỉ huy của Bạt Đô và Tốc Bất Đài đã đè bẹp quân Hungary trong trận Mohi. Sau chiến thắng quyết định này, người Mông Cổ hiện đã chiếm giữ được vùng Đại Đồng bằng Hungary, sườn dốc của dãy núi Carpathian phía bắc cùng với vùng đất Transylvania. Tuy nhiên, hàng chục ngàn người Hungary đã chạy trốn khỏi sự tàn sát của người Mông Cổ bằng cách ẩn náu đằng sau bức tường của các pháo đài kiên cố hoặc bằng cách trốn trong rừng hoặc đầm lầy lớn dọc theo các con sông. Người Mông Cổ, thay vì tiếp tục tiến quân sang Tây Âu, đã dành toàn bộ mùa hè và mùa thu để bảo vệ và bình định các vùng lãnh thổ mà họ chiếm đóng được. Vào ngày Giáng sinh năm 1241, quân Mông Cổ tiến hành bao vây thủ đô của Vương quốc Hungary là Esztergom và mặc dù đã gần như phá hủy toàn bộ thành này, quân Mông Cổ vẫn không thể chiếm được thành.

Vào mùa đông năm đó, quân Mông Cổ đã vượt sông Danube và chiếm được vùng Pannonia. Cuối cùng họ đã tiến đến sát biên giới với Áo và vùng Dalmatia nằm giáp biển Adriatic. Mặc dù người Mông Cổ đã kiểm soát được toàn bộ Hungary, nhưng họ lại không thể chiếm nổi các thành phố kiên cố như Fehérvár, Veszprém, Tihany, Győr, Pannonhalma, Moson, Sopron, Vasvár, Újhely, Zala, Léka, Pozsony, Nyitra, Komárom, Fülek và Abaújvár của người Hung.

Mông Cổ xâm lược Croatia

Vào thời Trung cổ, Vương quốc CroatiaVương quốc Hungary cùng được cai trị bởi một vị vua duy nhất, Béla IV. Khi quân Mông Cổ tiến đến bờ sông Sajó vào năm 1241, Béla IV đã chạy trốn sang Zagreb (ngày nay là thủ đô Croatia). Bat Đô đã gửi một đội quân khoảng 20.000 người đặt dưới sự chỉ huy của Khadan để truy đuôi vua Bela. Zagreb được củng cố kém nên không thể chống lại nổi cuộc xâm lược và thành phố này đã nhanh chóng bị phá hủy, nhà thờ của nó bị quân Mông Cổ đốt cháy.

Cuộc truy đuổi Béla IV của người Mông Cổ tiếp tục từ Zagreb qua Pannonia đến tận Dalmatia. Trong quá trình truy đuổi, quân Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Kadan (Qadan) đã tấn công Pháo đài Klis ở Croatia vào tháng 3 năm 1242. Do các công sự kiên cố của Klis, quân Mông Cổ đã gặp rất nhiều khó khăn khi công phá pháo đài này. Những người bảo vệ Klis đã có thể gây ra một số thương vong lớn cho người Mông Cổ. Ngay khi biết rằng Vua Bela đã trốn đi nơi khác, quân Mông Cổ đã từ bỏ cuộc tấn công và tách ra để tấn công các thành Split và Trogir. Người Mông Cổ truy đuổi Béla IV từ thị trấn này sang thị trấn khác ở Dalmatia, trong khi giới quý tộc Croatia và các thị trấn ở Dalmatia như Trogir và Rab đã giúp Béla IV trốn thoát. Sau thất bại trước những người lính Croatia, quân Mông Cổ đã rút lui và Béla IV an toàn. Chỉ có thành phố Split không hỗ trợ Béla IV trốn thoát khỏi quân Mông Cổ. Một số nhà sử học cho rằng địa hình đồi núi của Dalmatia đã gây thiệt hại nặng nề cho người Mông Cổ vì những tổn thất to lớn về nhân mạng mà họ phải chịu từ những cuộc phục kích của người Croatia trong những chuyến hành quân qua núi. Cuối cùng, mặc dù phần lớn Croatia đã bị cướp bóc và phá hủy, sự chiếm đóng lâu dài của người Mông Cổ đã không thành công.

Mông Cổ xâm lược Áo

Sau khi khuất phục Hungary, quân Mông Cổ đã có được bàn đạp để tiến hành xâm chiếm thành Vienna (là thủ đô nước Áo ngày nay). Sử dụng chiến thuật tương tự trong các chiến dịch của họ ở các quốc gia Đông và Trung Âu trước đó, trước tiên người Mông Cổ tung ra các đội quân nhỏ lẻ để tấn công các khu định cư bị cô lập ở ngoại ô Vienna nhằm cố gắng gieo rắc nỗi sợ hãi và hoảng loạn trong dân chúng. Năm 1241, quân Mông Cổ đột kích Wiener Neustadt và các quận lân cận, nằm ở phía nam thành Vienna. Wiener Neustadt đã gánh chịu hậu quả của cuộc tấn công và giống như các cuộc xâm lược trước đây, người Mông Cổ đã gây ra sự tàn bạo khủng khiếp đối với quần chúng không vũ trang. Công tước Áo là Frederick II, trước đây đã giao chiến với người Mông Cổ ở Olomouc và giai đoạn đầu của Trận Mohi ở Hungary. Tuy nhiên, không giống như ở Hungary, Vienna dưới sự lãnh đạo của Công tước Frederick và các hiệp sĩ của ông, cùng với các đồng minh nước ngoài, đã tìm cách tập hợp nhanh hơn và tiêu diệt đội quân nhỏ của người Mông Cổ. Sau trận chiến, Công tước ước tính rằng người Mông Cổ đã mất hơn 300 đến 700 quân trong khi liên quân châu Âu chỉ mất 100. Các hiệp sĩ Áo sau đó cũng đánh bại quân Mông Cổ tại biên giới sông March thuộc quận Theben. Sau các cuộc tấn công ban đầu thất bại, đội quân còn lại của người Mông Cổ đã rút lui về Nga sau khi biết về cái chết của Đại Hãn Oa Khoát Đài.

Mông Cổ xâm lược Bulgaria

Trong thời gian ông rút từ Hungary trở lại Ruthenia, một phần của quân đội của Bạt Đô đã xâm chiếm Bulgaria. Đội quân này đã bị người Bulgaria dưới sự chỉ huy của Sa hoàng Ivan Asen II đánh bại. Một lực lượng lớn hơn quay trở lại đột kích Bulgaria một lần nữa cùng năm, mặc dù ít ai biết chuyện gì đã xảy ra.